1. Cách gọi văn học, văn hóa không hề coi đây là hai thực thể đồng đẳng mà chỉ để nhấn mạnh vị trí và vai trò của văn học đối với văn hóa mà thôi. Quan hệ giữa văn học với văn hóa là quan hệ giữa bộ phận và tổng thể, có ảnh hưởng và chuyển hóa qua lại một cách biện chứng không chỉ trong thời đại ngày nay mà trong suốt chiều dài lịch sử. Nếu coi văn hóa là cội nguồn phát sinh và nuôi dưỡng văn học, tạo cho nó có sức sống và diện mạo riêng, thì đến lượt mình, văn học lại góp phần to lớn trong việc tôn tạo tầm vóc và bản sắc của văn hóa.
Hiển nhiên, để hoàn thiện mục tiêu về văn hóa, nhiệm vụ đặt ra không riêng đối với văn học mà chung cho mọi lĩnh vực thuộc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nhưng trong tương quan với văn hóa, văn học bao giờ cũng giữ vị trí trọng yếu và có vai trò quyết định đến thành quả của văn hóa. Và đây là cơ sở không những để khẳng định sứ mệnh của văn học trong địa hạt văn hóa, mà còn cho thấy lẽ tồn tại của văn học trong sự gắn kết không tách rời với văn hóa. Không đợi đến ngày nay xu thế toàn cầu hóa mới cho ta nhìn thấy điều này mà từ xưa ông cha ta đã hiểu rõ về vai trò và ý nghĩa của văn chương đối với văn hóa nói riêng và đối với con người cũng như cuộc đời nói chung. Trong Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn chỉ rõ: “Văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc lớn của sự kinh thế”. Cao Xuân Dục cũng khẳng định: “Văn chương là sự nghiệp lớn để trị nước, là công việc bất hủ, làm một lúc nhưng truyền lại muôn đời”. Sau này, luận về kết quả của văn chương, trong Việt Hán văn Khảo, Phan Kế Bính cũng thừa nhận: “Văn chương có khi rất thiêng liêng, có sức rất mạnh mẽ, có thể làm cảm động lòng người, chuyển di phong tục, và có thể làm cải biến được cuộc đời nữa”. Hiển nhiên, đó là loại văn chương cao quí, loại văn chương đáng thờ theo cách nói của Nguyễn Văn Siêu. Một quan niệm như vậy không thuần túy chỉ bộc lộ qua phát ngôn mà là kết quả đúc kết được qua thực tiễn sáng tạo văn chương và vị thế của nó đối với việc xây đắp nền văn hiến dân tộc, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia độc lập ngay từ những ngày đầu mới được thành lập đến suốt chiều dài lịch sử. Văn học chân chính luôn tìm thấy con đường phát triển của mình trong chiều hướng phát triển của văn hóa, nhờ đó mà có những đóng góp to lớn còn được lưu giữ đến hôm nay và mai sau. Những truyền thuyết về các vua Hùng trong thời kì dựng nước và giữ nước, thơ văn Lý, Trần thể hiện khí thế phục hưng và hào khí Đông A; những áng văn chương bằng chữ Hán và chữ Nôm được sáng tác trong gần mười thế kỉ ca ngợi truyền thống yêu nước và tự cường dân tộc, tinh thần dân chủ và cảnh đẹp quê hương… là di sản văn hóa vô giá góp phần chủ yếu trong việc hình thành nên cốt cách và bản sắc Việt Nam. Mọi sáng tác của văn học sẽ lùi về quá khứ, nhưng sản phẩm của sáng tác được lưu giữ và truyền bá ở hậu thế là văn hóa. Có thể nói, văn hóa lan tỏa trên mọi phương diện của văn học. Tiếp xúc với bất kì tác phẩm văn học nào chúng ta cũng nhận ra vô vàn biểu hiện văn hóa thuộc các lĩnh vực đời sống được phản ánh như chính trị, kinh tế, pháp luật, phong tục tập quán, tín ngưỡng… và ngay cả tâm hồn, tính cách của nhân vật văn học cũng mang đậm dấu ấn văn hóa qua các thời kì lịch sử. Vì vậy, viện sĩ D.C. Likhachốp rất có lí khi cho rằng, khi tìm kiếm những đặc điểm của nền văn hóa, trước hết cần tìm sự trả lời ở văn học và chữ viết. Văn học “nói” thay cho văn hóa dân tộc giống như con người “nói” thay cho tất cả những gì sống trong trời đất. Còn theo Phan Ngọc: “Đối với người Việt Nam, văn học gần như là đồng nghĩa văn hóa”(1). Điều này giải thích vì sao, lâu nay có rất nhiều công trình khai thác văn hóa qua văn học và ngược lại, cũng không ít trường hợp nghiên cứu văn học qua văn hóa. Hướng tiếp cận hai chiều giữa văn học và văn hóa đã mang lại những đóng góp quan trọng của các nhà nghiên cứu. Từ đây để thấy, mối quan hệ giữa văn học và văn hóa mật thiết như thế nào và vai trò của văn học đối với văn hóa to lớn biết chừng nào. Văn học mãi mãi chẳng những là bộ phận gắn kết không tách rời khỏi văn hóa mà còn trở thành chiều kích văn hóa từ các vấn đề cơ bản của dân tộc và thời đại đặt ra, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay.
2. Nhiều nhà nghiên cứu đã xem xu thế toàn cầu hóa là hướng hoạt động chủ đạo của văn học, văn hóa trong thời kì hội nhập. Đây là thời kì mà các quốc gia trên thế giới đều nhận thức rất rõ về sự tồn tại và phát triển bằng sức mạnh không chỉ của riêng mình mà còn của sự liên kết và hợp tác với nhau trên mọi lĩnh vực, trong đó có văn hóa, văn học. Xu thế toàn cầu hóa diễn ra một cách mạnh mẽ và sâu sắc trong thế giới ngày nay là thời cơ, nhưng cũng là thách thức đối với các quốc gia trên mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, luật pháp đến khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế… và dĩ nhiên, văn hóa văn học không phải là trường hợp ngoại lệ. Càng toàn cầu hóa, các quốc gia càng xích lại gần nhau, càng có điều kiện giao lưu để hiểu biết nhau nhiều hơn. Tuy nhiên, biết mình và hiểu người, nhưng xét thấy có gì còn thua kém so với người thì việc học tập và tiếp thu như thế nào để không đánh mất mình là một thử thách. Nếu tiếp thu một cách dễ dãi, thiếu sự gạn lọc để phân biệt tinh hoa với cặn bã thì hậu quả của sự tiếp thu sẽ làm sai lệch, thậm chí làm băng hoại và dẫn đến thủ tiêu các giá trị truyền thống. Một đất nước để mất văn hóa là mất chủ quyền và tự cường dân tộc. Đất nước đó không biết đã bắt đầu từ đâu và sẽ đến đâu trong tiến trình lịch sử. Bởi lẽ, “văn hóa là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội”, đánh mất văn hóa là đánh mất tất cả, còn văn hóa là còn tất cả. Từ thế kỉ XV, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tự hào gọi nước ta là Đại Việt, bởi lẽ dù phải trải qua hàng trăm năm Bắc thuộc, nhưng ông cha ta vẫn xây dựng và giữ vững cho mình một nền văn hóa truyền thống, không bị ngoại xâm thôn tính và đồng hóa (Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu). Tuy nhiên, giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa truyền thống theo quan điểm của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, từ chối hội nhập, giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới thì làm sao có khả năng làm cho nền văn hóa truyền thống ngày càng trở nên giàu đẹp và phát triển theo hướng hiện đại được. Edward Said rất có lí khi cho rằng: “Chẳng có nền văn hóa hay văn minh nào tồn tại biệt lập cả. Bất kì sự nổ lực nào nhằm chia tách chúng vào các khu vực ngăn cách (…) sẽ phá hủy tính phong phú, đa dạng, cực kì phồn tạp và tính lai ghép từ căn rễ của chúng. Càng rất mực bảo vệ sự chia tách của các nền văn hóa và văn minh, chúng ta sẽ trở nên sai lệch trong nhận thức về chính bản thân chúng ta và về người khác (…) quan niệm về một nền văn minh mang tính loại trừ là một điều bất khả”(2). Muốn phát triển một nền văn hóa lành mạnh và bền vững cần chống hai khuynh hướng cực đoan nêu trên. Điều này liên quan nhiều đến đội ngũ làm công tác văn hóa văn nghệ, nhất là vai trò định hướng của các chủ trương, đường lối được hoạch định và chỉ đạo bởi các tổ chức chính trị xã hội. Ở Việt Nam, kể từ những năm 40 của thế kỉ XX đến nay, đó là các văn kiện của Đảng mà Đề cương văn hóa là một ví dụ cụ thể.
Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 là văn kiện đầu tiên của chính đảng giai cấp công nhân bàn về phương hướng xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Nội dung cốt lõi của ba nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng đã đáp ứng kịp thời yêu cầu phục hưng những giá trị tinh thần truyền thống vốn bị suy thoái và đồng hóa do chính sách thuộc địa của thực dân, phát xít. Việc đề lên chủ trương tranh đấu chống xác xu hướng bảo thủ, chiết trung, bi quan thần bí, chống các biểu hiện sai lầm trên các phương diện triết học và nghệ thuật, tuy cũng có ý nghĩa lâu dài, nhưng chủ yếu xuất phát từ mục tiêu trước mắt là thực hiện bằng được ba nguyên tắc cơ bản đó. Có thể coi ba nguyên tắc là phương thuốc đặc trị căn bệnh văn hóa Việt Nam dưới thời thuộc Pháp như lai căng, lạc hậu và xa rời quần chúng. Vì vậy, muốn thấy hết ý nghĩa của Đề cương văn hóa Việt Nam, trước tiên nên xác định được tính cấp bách và tác dụng kịp thời của nó ngay từ những căn cứ như vậy. Bản đề cương còn thể hiện rõ tư tưởng chiến lược trên những phương diện căn bản như mục đích và đường lối, tổ chức và nhiệm vụ, đồng thời vạch rõ phương hướng và triển vọng của nền văn hóa tương lai: “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”. Nhìn chung trong bối cảnh xã hội nước ta trước cách mạng, việc soạn thảo kịp thời bản đề cương là xuất phát từ những yêu cầu cấp bách của văn hóa, nhưng chủ yếu là từ thực tiễn đấu tranh cách mạng lúc đó. Sự chi phối của tư tưởng chính trị đối với việc hình thành những quan điểm văn hóa tuy đã làm cho bản đề cương thể hiện được những vấn đề tương đối sát đúng với lợi ích dân tộc, dân chủ, nhưng xét về văn hóa lại có phần sơ lược và thiếu chính xác. Đề cương mới cho thấy vai trò quyết định của kinh tế đối với văn hóa mà chưa chỉ ra ảnh hưởng của văn hóa đối với kinh tế, cũng như đối với các hình thái ý thức xã hội. Có chăng, chỉ tìm thấy điều này qua ý kiến sau đây nêu trong đề cương, rằng: “Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được lý luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”. Một văn kiện bàn về đường lối phát triển văn hóa mà chỉ dành một câu duy nhất nói về vai trò của văn hóa và cũng chỉ bó hẹp trong giới hạn tuyên truyền chính trị thì rất dễ đem lại quan niệm phiến diện, lệch lạc về chức năng xã hội của nó. Việc phân kỳ và xác định tình chất văn hóa Việt Nam theo các mốc lịch sử cũng không ổn. Liên quan đến điều này, sai lầm đáng nói là khi đề ra nhiệm vụ trước mắt, đề cương đã chủ trương chống văn hóa phong kiến như chống văn hóa phát xít, văn hóa thoái hóa và nô dịch mà chưa thấy được “yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa” trong văn hóa của thời kỳ phong kiến để kế thừa. Đối với văn học cũng vậy, đề cương ghi rõ: “Tranh đấu về tông phái của văn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng,…) làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng. Ở đây, đề cương muốn thể hiện lập trường dứt khoát của Đảng về phương hướng phát triển nền văn nghệ mới. Cụ thể, muốn xây dựng thành công nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa thì phải làm cho phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế tuyệt đối; nhưng đã trở nên cực đoan khi đối lập nó với các phương pháp và trào lưu văn học khác rồi gạt bỏ luôn những yếu tố khả thủ của chúng. Một quan điểm như vậy được thể hiện trong văn kiện đầu tiên có tính cương lĩnh đã ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ trong thời gian dài xây dựng nền văn hóa văn nghệ Việt Nam. Sau này nhìn lại, đồng chí Trường Chinh – người chịu trách nhiệm khởi thảo cũng thừa nhận: “Đề cương văn hóa Việt Nam không dài, có nhiều hạn chế vì trong hoạt động bí mật Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu sắc các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam”(3). Trải qua hơn nửa thế kỉ, bên cạnh ưu điểm và thành công thì nhược điểm và hạn chế của Đường lối văn hóa, nghệ thuật vẫn còn tìm thấy dấu ấn khởi nguồn từ Đề cương văn hóa. Vì vậy để có thể hội nhập và giao lưu văn học, văn hóa với các quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam phải tiến hành một cuộc cách tân mạnh mẽ. Quá trình đó đã và đang diễn ra không ít gay go và thử thách.
3. Với Việt Nam, có thể xem năm 1986 là mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển mình của đất nước, đồng thời cũng là của văn học, văn hóa theo xu thế toàn cầu hóa. Văn kiện Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết 05 của Bộ chính trị đã mở ra cho văn học, văn hóa chân trời của tự do sáng tác, phê bình, nghiên cứu và truyền bá. Mọi rào cản của sự đổi mới, nhất là đối với văn học đã từng bước được tháo dỡ như tính độc tôn về tư tưởng, sự định kiến cực đoan trong cách nhìn đối với các khuynh hướng, trào lưu văn học phi vô sản, bản tính giai cấp, dân tộc hẹp hòi… có tác dụng dọn đường cho văn học, văn hóa Việt Nam tiến gần để hòa nhập với văn hóa thế giới.
Về sáng tác, nhà văn nhập cuộc không phải với tư cách “người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng” như trước mà là những con người thực sự động não, có ý thức làm chủ về tư tưởng, tài năng và cá tính sáng tạo của mình. Sáng tác không còn tuân theo quán tính cũ, đáp ứng yêu cầu phải “có đề tài, chủ đề tư tưởng rõ ràng”, phải “miêu tả hiện thực một cách chân thật lịch sử – cụ thể trong quá trình phát triển cách mạng” mà đa dạng hóa đề tài và phương thức thể hiện nhằm phát huy trí tưởng tượng và khả năng liên tưởng, sáng tạo của người đọc. Sau sáng tác của nhà văn tiên phong như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo… là sáng tác của đông đảo nhà văn, nhà thơ nối tiếp nhau làm mới văn học bằng tư duy nghệ thuật độc đáo về các vấn đề có ý nghĩa nhân văn mang tính người, tính nhân loại.
Về lý luận phê bình, nhiều hội thảo khoa học, hội nghị bàn tròn và hàng loạt bài báo đã tranh luận quyết liệt xung quanh những vấn đề cơ bản của văn học mà một thời đã mặc định thừa nhận như quan hệ giữa văn nghệ với chính trị, nghệ thuật với tuyên truyền, đặc trưng văn học, tính đảng và phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa… Mọi cuộc tranh luận không ngoài mục đích nhận chân cho được bản chất của cái thẩm mĩ và giá trị thẩm mĩ của văn học. Diễn biến của tình hình tranh luận cho thấy ngày càng có những biểu hiện tích cực, nhưng không dễ để có một quan niệm thống nhất. Bởi lẽ, cái thẩm mĩ của văn học nghệ thuật được quan niệm như thế nào còn liên quan đến tư tưởng, thị hiếu và thói quen tiếp nhận đã ăn sâu trong tiềm thức của các thế hệ độc giả, kể cả giới phê bình nghiên cứu. Xu thế toàn cầu hóa và không khí đổi mới của đất nước đã tác động đến việc đổi mới tư duy văn học, giúp nó vượt qua sự trì trệ, bảo thủ để không những tạo ra những sản phẩm có giá trị thẩm mĩ cao mà còn nhận diện lại một cách sát đúng các giá trị thẩm mĩ trong quá khứ như Thơ mới, Tự lực văn đoàn… Thành tựu của văn học Việt Nam tạo nên, trước tiên về sáng tác, sau đó về phê bình nghiên cứu. Ngoài ra các hoạt động khác như xuất bản, dịch thuật và quảng bá văn học cũng đóng góp vai trò không kém phần quan trọng đối với tiến trình toàn cầu hóa văn học.
Tuy nhiên, từ những năm 80 trở về trước, nền văn học chính thống nước ta bị chia tách, tồn tại một cách biệt lập với các trào lưu văn học phương Tây và của nhiều nước nằm ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa. Vẫn biết thành tựu của văn học cách mạng trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc không thể phủ nhận, nhưng từ một thực trạng như vậy đã bộc lộ không ít hạn chế cả về sáng tác lẫn phê bình nghiên cứu. Sau này dẫu đã nhận thức rõ điều đó và tích cực hội nhập, nhưng văn học Việt Nam vẫn chưa bắt kịp sự tiến bộ nghệ thuật của nhân loại. Chỉ nói riêng về lý luận, phê bình, nếu nhìn trong tiến trình văn học thường đi sau một bước so với thế giới. Nói một bước là cả một thời kì đánh dấu sự thay đổi hệ hình trong tư duy thẫm mĩ đã làm thay đổi căn bản về tư duy sáng tác và quan điểm thẩm mĩ về sản phẩm của sáng tác. Cho đến nay, thời đại của trào lưu lí thuyết hậu hiện đại đã đi qua mấy chục năm, đã lay động và làm thay đổi căn bản lí luận của nhiều nước trên thế giới, nhưng ở nước ta tình hình này diễn ra rất hạn chế. Hàng loạt khái niệm, phạm trù lí thuyết văn học được kiến tạo theo tư duy hậu hiện đại vẫn nằm ở vị trí ngoại biên, chưa đủ sức thay thế hệ thống lí thuyết cũ vốn bình ổn lâu nay, ít thay đổi.
*
Là một bộ phận kết tinh các giá trị văn hóa, văn học Việt Nam phải chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa cả về sáng tác lẫn lý luận phê bình nghiên cứu mới có thể góp phần xứng đáng làm thay đổi diện mạo văn hóa Việt Nam. Nó phải vượt qua giới hạn của tư duy cũ bằng sự nỗ lực cách tân của giới văn nghệ cũng như các tổ chức quản lí văn học, văn hóa. Đó là đòi hỏi và thách thức đang đặt ra đối với văn học, văn hóa Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta tin văn học Việt Nam sẽ vượt qua giới hạn và đáp ứng được yêu cầu, thách thức đó. Nhất là trong bối cảnh thế giới ngày nay, với sự đẩy mạnh toàn cầu hóa thị trường kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ thì văn học Việt Nam càng có điều kiện hội nhập, giao lưu và phát triển trong sự phát triển chung của văn học nhân loại. Đó là cơ hội và cũng là xu thế lịch sử mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã dự báo trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cách đây hơn 100 năm về trước, rằng: “Những mối quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến đối với nhau giữa các dân tộc, đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và của các dân tộc vẫn tự cung tự cấp. Và sản xuất vật chất đã như thế, thì sản xuất tinh thần cũng không kém phần như thế. Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất hẹp hòi và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nẩy nở một nền văn học toàn thế giới”(4). Tất nhiên, nền văn học thế giới là nền văn học đa bản sắc và phong cách, nhưng lại có mối liên hệ thống nhất về quan điểm thẩm mĩ và giá trị nhân văn mang tính nhân loại. Đó cũng là mục tiêu mà văn học, văn hóa của mọi quốc gia đang hướng tới để phát triển trong xu thế toàn cầu hóa.
——————
(1) Phan Ngọc, Thử xét văn hóa – văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên 2000.
(2) Edward Said, “Sự đụng độ của các định nghĩa”, Nghiên cứu Văn học, số 2-2016, tr.22.
(3) Trường Chinh, Về văn hóa và nghệ thuật, T2, Nxb Văn học 1986, tr.375.
(4) C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự Thật, 1977, tr.330.
PGS.TS. Trần Thái Học
Đại học Sư phạm, Đại học Huế